TRƯỜNG CŨ NGƯỜI XƯA (10)

Logo TS cung nhau

Cong truongNỬA THẾ KỶ

VÀ TUỔI HỌC TRÒ

Võ Minh Lý, HNC 1959 – 66

Mùa hè năm 1966, có một số nhóc tì giã từ mái trường trung học bước lên đại học và ra đời. Bảy năm trước đó, trong áo sơ mi trắng và quần tây dài xanh, họ cùng nhau xách cặp vào các lớp đệ thất của Trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn niên khóa 1959 – 60.

Mấy đứa chọn sinh ngữ Pháp văn thì năm đệ nhất phải ra Trường Petrus Ký học, nhưng họ vẫn cứ nhận nhau là đồng môn HNC và chơi thân với  đám HNC rặt ròng.

Lên đại học, trong bọn họ đứa thì chọn y khoa, đứa chọn dược hay nha; đứa thì xin đi du học và cũng có đứa gác bút nghiên cầm súng ra chiến trường. Thì giờ đâu mà gặp nhau tụ họp. May ra thì gặp nhau khi đi bát phố Bô – na với đào. hnc-the-ky-1Thân lắm thì tết nhứt ghé thăm nhau. Cái thời mà điện thoại cầm tay chưa có thì chuyện gặp nhau cũng họa hoằn năm thì mười thuở.

Đùng một cái thì vật đổi sao dời lúc tháng Tư năm 1975. Ông Trời giáng một quả búa tạ làm bọn họ văng tung tóe thành những kẻ ly hương. Nếu có đứa may mắn đi được trong giờ thứ hai mươi lăm thì cũng có đứa bị kẹt lại đi tù rồi ra đi cách này hay cách khác. Miếng cơm manh áo khiến họ phải bắt tay làm lại từ đầu. Họ nếm tất cả những vị mặn, ngọt, chua, cay lẫn đắng, chát của cuộc đời. Họ kinh qua những nghề tầm thường nhất trước khi đi lên. Họ thấm thía hai câu thơ trong truyện Kiều của Cụ Nguyễn Du :

“Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

Và thời gian không ngừng lại chờ ai. Họ bước qua tuổi trung niên với tất cả nhọc nhằn. Họ tìm được người bạn đời để vui buồn có nhau và cũng để có thêm tí nhau và tí nữa. Sướng và Khổ cứ quyện vào nhau như vậy. Đời mà.

Qua thời trung niên là họ bắt đầu mệt mõi. Mắt bắt đầu mờ, tay chân bắt đầu lọng cọng và rõ nét nhất là cái đầu không thèm nhớ chuyện mới xảy ra mà chỉ toàn nhớ chuyện từ đời xửa đời xưa. hnc-the-ky-2Thế là nảy ra nhu cầu tìm lại bạn cũ. Trong cái đám bạn cũ đủ loại thì bạn đồng môn là xưa nhất, nhiều kỷ niệm nhất.

Cái thời mà tình bạn chưa có tiền bạc hay bóng hồng xen vào nên nó thật trong sáng, thật ngây ngô và có sao nói vậy, không màu mè. Những tiếng xưng hô “Mày, Tao, Mình, Bồ” chỉ có ý nghĩa trọn vẹn nhất ở tuổi học trò. Một trong những cái thú khi đi tìm lại bạn đồng môn là để gọi nhau bằng những tiếng mà với người khác thì không xài được.

Rồi nửa thế kỷ trôi qua, nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Họ chợt nhận ra là mình nên hội ngộ trong dịp đặc biệt này. Điểm danh có mặt trong nhóm Pháp văn là N.K.Bảng, L.B.Chân, Đ.M.Chiêu, N.M.Dần và V.Đ.Hậu. Bên Anh văn thì có V.M.Lý. Còn một vài bạn nữa mà đường xá quá xa xôi nên xin hẹn điểm danh lần tới vậy. Tới chung vui còn có P.M.Hoa, niên khóa 60 – 67, vốn là bạn láng giềng với Bảng.

Nơi hội ngộ là nhà của Bảng ở Nam Cali. Xa nhất là vợ chồng Chiêu từ Oregon xuống, rồi đến vợ chồng Dần và vợ chồng Lý đi từ Bắc Cali. Gần hơn thì có vợ chồng Chân ở miệt giữa Cali. Ở thành phố cạnh với Bảng thì có Hậu. Trời gần cuối tháng Chín mà vẫn còn nóng gần 100 độ F nên cả đám kéo nhau ra biển buổi trưa làm picnic trước khi vào chánh tiệc buổi chiều.

Người ta thường nói là gặp nhau đông, vui thì hao; với bọn này thì có vẻ ngược lại : Đông, Vui và Dư. Chủ xị Bảng đề nghị ai muốn mua gì mua nấy rồi à-la-chia mà rốt cuộc rồi huề cả làng. Báo hại Bảng phải ỉ ôi năn nỉ mọi người cầm bớt về nhà dùm vì Bảng đang ở nhà một mình. Bà xã của Bảng đi trông cháu ở Canada.

Này nhé, buổi picnic thì Hậu bao thầu và vợ chồng Chân mang trái cây. Bánh mì thịt thì chỉ ăn hết phân nửa, trái cây cũng vậy. Thứ nào cũng ngon mà tiếc thay, cái bụng của tuổi gần bảy mươi không còn ngốn như hồi mười tám hai mươi nữa. hnc-the-ky-3Đến chiều thì chị Phi của bạn Chân cụ bị mang đến lò ga, bếp điện và đủ thứ đồ tế nhuyển để chiêu đãi món lẫu dê cho ít nhất là hai chục người ăn.

Bảng thì đặt cơm chỉ, bốn món bốn khay. May mà chủ tịch Dần gọi điện thoại hồi lại bớt hai khay. Trái cây thì ê hề cộng với rau câu (người Bắc gọi là thạch í mà) do vợ chồng Hoa mang tới. Nhân sự tổng cộng là mười bốn người, kể luôn cặp vợ chồng người bạn của Lý & Trang từ Los Angeles đến. Hai người này đem tới cây nhà lá vườn: ổi và thanh long. Quá đã.

Đã cái bụng mà cái đầu còn đã hơn. Buổi trưa trong lúc các nàng đi dạo biển cả tiếng đồng hồ thì phe ta ngồi tại chỗ râm rang đủ thứ chuyện. Chuyện tuổi học trò, chuyện thời sinh viên, chuyện quân trường, chuyện đổi đời. Có luôn cả những chuyện làm ở bịnh viện của Hậu… Cứ Mày/Tao, Mình/Bồ với nhau rồi cười hăng hắc là thấy sướng lạ. Vui nhất vẫn là những chuyện phá phách, đùa nghịch lúc đi học. Biết bao nhiêu là kỷ niệm với nhau và với các thầy cô.

Buổi tối sau khi ăn là màn cắt bánh kỷ niệm 50 năm Hồ Ngọc Cẩn. Bảy chàng đứng lên tay trong tay hát bài Hồ Ngọc Cẩn Hành Khúc. hnc-the-ky-4Có vẻ là Bảng, Hậu và Dần là những trò còn nhớ nhiều nhất. Hoa, Chiêu, Chân và Lý chỉ hụ hợ theo đuôi. Vui kể gì.

Đặc sắc nhất là chương trình ca nhạc do Hậu làm đầu tàu. Đúng như lời khen của Cô Ngoạn : “Sao mà Hậu nó hát hay đến thế”.Giọng của Hậu trầm, ấm và Hậu hát có vẻ rất dễ dàng và tự nhiên trong khi tự đánh đàn. Nghe hoài không chán.

Chiêu hát nhạc sống cũng được lắm và phải nói là chị Đức của bạn Dần hát với tất cả tâm hồn. Chị Đức thuộc rất nhiều bài và người thưởng thức trọn vẹn nhất là bạn Dần. Mỗi lần chị Đức hát là bạn Dần gật gù, nhắm mắt để hồn mình chơi vơi theo lời ca, tiếng nhạc. Tuyệt vời. Hát kiểu Karaoke thì có vợ chồng Chiêu, Bảng và chị Phi. Ai hát cũng hay. Riêng Lý thì uống thuốc liều làm đại hai bài. Vừa hát vừa run.

Buổi hội ngộ kéo dài quá nửa đêm mới tan. Qua ngày hôm sau thì chủ tịch Dần mời mọi người đi ăn sáng ở nhà hàng Ngự Bình, nơi có món bún bò Huế đặc sắc. Lúc chia tay thì vợ chồng bạn Hoa tặng chanh dây cây nhà lá vườn cho mọi người. Thứ trái chanh lạ rất thơm.

Hng Vo minh LyXin tóm tắt buổi hội ngộ bằng email của bạn Chân như sau :

“Bảng Độc  Cô Cửu Kiếm hơi mệt, Hậu hoàn thành xuất sắc lôi cuốn mọi người, phát huy mãnh lực âm nhạc. Chủ tịch lãnh đạo vui nhộn gây sức sống mọin gười. 2 chị Trang tận tình tiếp tay Bảng tỏ rõ chân thành đoàn kết. ”Bà xã của bạn Chiêu và bà xã của Lý cùng có tên là Trang. Hai cặp Chiêu & Trang và Lý & Trang tá túc qua đêm ở nhà Bảng nên hai Trang nói dọn dẹp là chuyện nhỏ thôi.

Nửa thế kỷ. Chuyện xưa chan hòa với chuyện nay. Cả bọn hẹn nhau là còn sức khỏe thì còn ráng gặp nhau cho vui. Hưởng lại niềm vui của tuổi học trò được tới đâu thì hay tới đó vậy mà.

Võ Minh Lý Ngày 28 tháng 9 năm 2016

Logo bay gio ke

9-nha-tho-1NHÀ THỜ NGÃ SÁU :

THÁNH JEANNE D’ARC

Mỗi giáo xứ, mỗi nhà thờ đều có lịch sử riêng biệt, từ lúc manh nha đến giai đoạn phát triển. Giáo xứ và nhà thờ Jeanne d’Arc Ngã Sáu Chợ Lớn cũng nằm trong định luật này.

Trước năm 1865, giáo dân Việt Hoa còn thưa thớt, chưa có nhà thờ nên họ thường đi lễ ở nhà thờ Chợ Quán. Đến năm 1865, linh mục Philipphê thuộc dòng Thừa Sai Paris (MEP) từ Trung Quốc sang Chợ Lớn, thấy giáo dân người Hoa ngày một đông, nên ngài đã cất một ngôi thánh đường tọa lạc tại đường Phùng Hưng (nay là ngân hàng Việt Hoa). Nhà thờ này mang tên Tổng lãnh Thiên Thần Micae.

Khoảng năm 1890, giáo dân người Việt cũng gia tăng. Linh mục Phanxicô Xaviê Tam Assou, gọi tắt là Cha Tam, đã cất xong một ngôi thánh đường mới như hiện nay vào năm 1898. Cũng vào năm ấy, nhà thờ Micae được nhường lại cho tín hữu người Việt. Năm 1919, linh mục Gioan Baotixita Huỳnh Tịnh Hướng là cha sở Họ Micae.

Giai đoạn phát triển và ngôi thánh đường mới Jeanne d’Arc

Vùng Chợ Lớn vào thời kì này rất phồn thịnh nhất là kinh tế. Dân chúng tuôn về đây sinh sống ngày một đông. Giáo dân người Việt cũng theo đà phát triển kinh tế mà gia tăng. Cha Gioan Baotixita Huỳnh Tịnh Hướng nhận thấy nhà thờ Micae xuống cấp và hư nhiều, nên ngài chọn một địa điểm khác rộng rãi hơn để cất một ngôi thánh đường mới với danh hiệu là Jeanne d’Arc.

9-nha-tho-2

Người dân thường gọi là “Nhà thờ Ngã Sáu”, vì gần nhà thờ có ba con đường Nguyễn Tri Phương, Ngô Gia Tự và Nguyễn Chí Thanh đan chéo nhau chia thành sáu hướng đi. Thánh đường Jeanne d’Arc được kiến trúc theo Tây phương kiểu Gothique, tọa lạc trên nghĩa trang Huê kiều (người Pháp gọi là Plaine des tombeaux). Nhà thờ khởi công xây năm 1922, khánh thành tháng 5 năm 1928. Sau khi khánh thành ngôi thánh đường mới, nhà thờ Micae không cỏn hoạt động tôn giáo nữa.

9-nha-tho-3

Từ khi có ngôi thánh đường mới Jeanne d’Arc đến nay đã có bốn đời linh mục quản xứ : 1/- Linh mục tiên khởi Gioan Baotixia Linh mục người Pháp (duy nhất) – 2/- Huỳnh Tịnh Hướng (1928 – 1934) Louis Bosvieux (1934 – 1946)  – 3/- Linh mục Giuse Linh mục Antôn (đương nhiệm) – 4/- Bùi Văn Nho (1946 – 1989) – 5/- Lương Thủ Hơn (1989 – Nay)

Logo kinh di 1

9-kho-bau-1aTRUY TÌM NHỮNG KHO BÁU

BÍ ẨN NHẤT MỌI THỜI ĐẠI

Trong truyền thuyết vẫn tồn tại những kho báu bí ẩn bị mất tích. Suốt nhiều thập kỷ, hàng nghìn người đã cố công đi tìm chúng bằng mọi giá nhưng không đạt được kết quả.

Ngày nay, với những tiến bộ vượt bậc của công nghệ, nhiều người hy vọng rằng những kho báu mât tích bí ẩn sẽ được tìm thấy.

Bên cạnh đó, mỗi kho báu đều mang kèm theo những câu chuyện ly kỳ, thú vị, đủ hấp dẫn để lôi kéo những người thích khám phá. Mặc dù nghe có vẻ “giả tưởng” và đơn thuần chỉ là giải trí, nhưng không ít người đã bị thương nặng hoặc thậm chí bỏ mạng khi tham gia các cuộc dò tìm kho báu được cho là bí ẩn nhất trong mọi thời đại, theo tổng hợp của trang Listverse sau đây.

1/. Kho báu Yamashita tại vịnh Bacuit : Vịnh Bacuit là một hòn đảo nhỏ tọa lạc ở Palawan (Philippines). Nơi đây gắn liền với câu chuyện huyền thoại về kho báu bí ẩn của một vị tướng Nhật mang tên Tomoyuki Yamashita. 9-kho-bau-1bNgười ta đoán rằng, ông đã cất giấu chúng trong hang động của vịnh Bacuit vào thập niên 1940.

Trong Chiến tranh thế giới II, hệ thống phát xít của Nhật đã không ngừng bành trước, cướp bóc của cải của những quốc gia chung đường biên giới một cách dã man như: Malaysia, Ấn Độ, Thái Lan và Mianmar. Các nhà sử gia ước tính khối lượng vàng mà đế quốc Nhật cướp có thể lên tới 100.000 đến 300.000 tấn.

Để đảm bảo an toàn cho số tài sản, Yamashita đã cho vận chuyển đến Philippines, Singapore, Indonesia… chia ra nhiều địa điểm để cất giấu. Bên cạnh đó, một phần lớn trong số tài sản kếch xù đó được Yamashita cùng thuộc hạ vận chuyển bằng tàu biển về Nhật.

9-kho-bau-1cTuy nhiên, trên đường đi, họ nhận được lệnh di chuyển số vàng này đến một địa điểm mới. Toàn bộ nhân công tham gia chiến dịch chôn giấu kho báu sau đó đều bị thủ tiêu. Kho báu được giữ kín và chỉ có tướng Yamashita cùng một vài sĩ quan cao cấp trong quân đội Phát xít Nhật nắm giữ.

Vào khoảng những năm 70, Rogelio Roxas tìm thấy một phần của kho báu. Sau đó, Tổng thống Phillippines Ferdinand Marcos ra lệnh tịch thu toàn bộ châu báu và giấu trong một căn hầm đặc biệt. Roxas đâm đơn kiện và nhận khoản tiền thưởng khổng lồ 22 tỷ USD. Tuy nhiên, ông ta vẫn chưa thỏa mãn và tiếp tục khiếu kiện.

Truy tìm kho báu : Cục tình báo chiến lược Mỹ (OSS), tổ chức tiền thân của CIA đã sử dụng phương án khai thác người lái xe thân cận của Yamashita là thiếu tá Kashii. Việc này do sĩ quan tình báo người Philippines gốc Mỹ là Tuy Santa Romana đảm nhiệm, giám sát Santa là G.Lansdale, một nhân vật nổi tiếng thuộc OSS.

Công việc thẩm vấn được tiến hành bí mật, cuối cùng vào tháng 10/1945, quân đội Mỹ đã nắm được một số địa điểm nghi ngờ là nơi chứa kho báu. 9-kho-bau-1dSự việc đã được báo lên cho Tổng thống Harry S. Truman. Một kế hoạch khai quật được bí mật tiến hành.

Tháng 11/1945, tướng J. McCloy, đặc phái viên tài chính của Tổng thống Truman cùng Lansdale bí mật bay đến Manila thị sát hầm vàng mà Santa đã khai quật. Chỉ tính riêng ở đây, số vàng đã có giá trị vài chục tỷ USD. Theo ước tính của nhà báo Sterling Seagrave, tổng số vàng và của cải được chôn giấu tại nhiều địa điểm ở Phillippines có thể lên đến hàng nghìn tỷ USD.

Bên cạnh các điều tra của hai nhà báo, một sự việc rùm beng khác cũng chứng thực sự tồn tại của kho báu của phát xít Nhật. Đó là vụ việc liên quan đến cố Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos, người bị buộc tội tham nhũng và bị phế truất năm 1986. Trước khi chạy sang Hawaii sống lưu vong, gia đình nhà độc tài này sở hữu khối tài sản khổng lồ.

Nguồn gốc sự giàu có này được ông Marcos chính thức giải thích ngày 1/1/1970 (lúc đó là đương kim tổng thống Philippines) rằng nhờ đào được kho vàng của tướng Yamashita. Năm 1992, bà góa phụ Imelda Marcos tái xác nhận chồng bà đã tìm được 4.000 tấn vàng từ kho vàng Yamashita.

2/. Kho báu bị cướp của Nhà thờ Pisco : Người ta tương truyền rằng, vào thập niên 1800, bốn binh sĩ Peru đã lập ra kế hoạch đánh lừa những linh mục với âm mưu chiếm đoạt kho báu của nhà thờ Pisco. Cuối cùng, Luke Barrett, Arthur Brown, Jack Killorain và Diego Alvarez đã có được sự tin tưởng của Giáo Hội Pisco ở Peru và biến mất trên con thuyền chứa hơn 14 tấn vàng sau khi giết hết các linh mục.

Trên đường đến Úc, họ đã để lại kho báu trên một hòn đảo, vẽ một bản đồ với hy vọng sau đó sẽ quay trở về để tìm lại chiến lợi phẩm của mình. 9-kho-bau-2Tuy nhiên, trước khi trở về, họ đã bị quân đội Peru phát hiện, hai người thiệt mạng và hai người còn lại bị bắt giữ. Cuối cùng, chỉ còn duy nhất Killorain sống sót sau thời gian tù tội.

Trước khi chết, ông đã nói với Charles Howe về kho báu bị đánh cắp và nơi kho báu được cất giấu. Tương truyền, Howe đã tìm thấy kho báu, nhưng không có đủ trang thiết bị và phương tiện để di chuyển chúng. Cuối cùng, ông đã tiết lộ vị trí cho George Hamilton – cũng là người cuối cùng đi tìm kho báu nhưng không tìm thấy bởi ông không hiểu bản đồ.

3/. Bản đồ kho báu Lue : Vào giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới II, phát xít Đức đã di chuyển 14 tấn vàng đến Mỹ nhằm phá hoại nền kinh tế và ngăn không cho nước này xâm nhập vào cuộc chiến. Vì vậy, sau khi kế hoạch bị bại lộ, Luật Vàng đã được thiết lập để chống lại âm mưu của phát xít Đức.

9-kho-bau-3Tất nhiên, nền kinh tế Mỹ không bị ảnh hưởng nhiều, họ cũng không thể đưa kho báu trở về nước. Tuy nhiên, với sự trung thành của các thành phần phát xít, những người chủ chốt nắm giữ vị trí của kho báu đã tự sát, khiến cho tất cả trôi vào dĩ vãng.

Những gì người ta còn để lại là tấm bản đồ kho báu duy nhất mang tên : Hóa đơn 1 đôla – bản đồ Lue. Bản đồ chứa đầy đủ những biểu tượng tượng hình, tượng thanh, các ký tự cực kì khó khăn để giải mã. Nhiều nghiên cứu gia, nhà toán học đã cố gắng tìm mọi cách “thu phục” bản đồ Lue. Thế nhưng, ngay cả trong thời kì công nghệ ngày nay, mọi nỗ lực giải mã vẫn còn vô vọng.

4/. “Thành phố trắng” – La Ciudad Blanca : La Ciudad Blanca – “thành phố Trắng” là một đô thị huyền thoại đã mất tích từ lâu đời. Những lời đồn về chúng bắt đầu xuất hiện từ thời quân đội Tây Ban Nha đi xâm chiếm khu vực miền Nam và Trung Mỹ vào thập niên 1500. 9-kho-bau-4-5Trong thế kỷ thứ XX, các nhà khảo cổ tin rằng, khu rừng Mosquitia chứa một thành phố cổ đầy ắp vàng bạc với nền văn minh cổ đại.

Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng nào chứng minh điều đó. Ngoài ra, người ta còn cho rằng, La Ciudad Blanca là nơi sinh của vị Thần Rắn Quetzalcoatl. Gần đây nhất, vào tháng 2/2013, dấu tích của “thành phố trắng” được tìm thấy trong khu rừng nhiệt đới tại vùng Mosquitia của Hondrus. Các nhà khoa học đã dùng công nghệ LiDAR – sử dụng các loại lazer để khảo sát đối tượng từ xa, sau đó tách sóng và xác định cự ly, thuận lợi cho việc tìm kiếm thành phố huyền thoại này.

5/. Kho báu Issyk-Kul của Thành Cát Tư Hãn : Có rất nhiều huyền thoại xung quanh hồ Issyk-Kul, điển hình là bí mật kho báu đã bị chôn vùi của Thành Cát Tư Hãn. Trong lịch sử, Thành Cát Tư Hãn đã chinh phục một vùng đất rộng lớn trải dài qua hai châu lục.

Thành Cát Tư Hãn đã tích lũy kho báu của mình bằng rất nhiều của cải và sản vật quý hiếm cướp bóc được trong suốt 13 thế kỷ. Khi ông băng hà, kho báu cũng vì thế mà chôn theo.

Nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành nhưng dường như tất cả đều vô vọng. Với những nỗ lực gần đây, các nhà nghiên cứu Mỹ cho rằng, họ đã xác định được ngôi mộ của Thành Cát Tư Hãn nhưng ở đó lại không hề có kho báu. Một số người vẫn hoài nghi ngôi mộ tìm được liệu có phải là 9-kho-bau-6-7của Thành Cát Tư Hãn hay không, hoặc giả, kho báu được chôn ở một nơi khác gần đó.

6/. Kho ngọc chìm dưới đáy biển : Mưa bão ở bang Florida, Mỹ đã gây ra hàng loạt vụ đắm tàu nổi tiếng trong lịch sử, bao gồm vụ đắm tàu Santissima Concepcion (tên khác là El Grande). Theo nhiều tài liệu, khoảng 500 người ở trên tàu khi nó gặp nạn và chỉ khoảng 4 đến 190 người sống sót, Chicago Tribune đưa tin. Số tài sản chìm xuống đáy đại dương trong thảm họa bao gồm 1.800.000 peso (134.600 USD), 77 hòm ngọc trai, 49 hòm ngọc lục bảo. Nhà chức trách cố gắng tìm và xác định vị trí kho báu nhưng không thành công. Nhiều người cho rằng, một nhà thám hiểm đã tìm thấy khoảng 25 % kho báu trong lần khám phá đáy biển năm 1687.

9-kho-bau-87/. Kho vàng trong xác tàu đắm biến mất : Con tàu hơi nước sang trọng SS Islander chở đầy vàng chìm xuống đáy đại dương năm 1901 và được trục vớt vào năm 2012. Tuy nhiên, theo Dallas Morning News người ta không phát hiện bất cứ kho báu nào trên tàu. Đoàn thám hiểm của công ty Mars cho rằng, có thể vàng đã rơi xuống đáy biển trong quá trình trục vớt bởi họ thấy bụi và vài mẩu vàng còn sót lại trong xác tàu. Mars ước tính trị giá kho báu bí ẩn lên tới hơn 250 triệu USD và họ đang lên kế hoạch thám hiểm tiếp theo để tìm chúng. Hiện nay, bạn có thể thấy một phần tàu SS Islander trên bờ Đảo Đô đốc và phần còn lại ở thành phố Seattle.

8/. Tàu chở vàng của quân đội Đức : Nhiều người kể rằng, tàu Antilla chở đầy vàng của quân đội Đức đi dọc Biển Bắc để đầu hàng phe đồng minh do thua trận trong Thế chiến II. Tuy nhiên, trước khi cập bến, thuyền trưởng đã ra lệnh đánh chìm con tàu cùng số tài sản khổng lồ xuống đáy đại dương thay vì để chúng rơi vào tay người khác,9-kho-bau-9-10 Boston Globe đưa tin. Người dân địa phương gọi Antilla là tàu ma.

9/. Kho báu mất tích của thổ dân da đỏ Apache : Một vài tin đồn cho rằng, sau khi cướp tiền và vàng bạc từ một toa tàu, những thổ dân Apache đã giấu chiến lợi phẩm trong hầm trên núi Winchester, bang Arizona, Mỹ. Hiện nay, theo Houston Chronicle, rất nhiều người tham gia tìm kiếm kho báu mất tích để thử vận may bất chấp những câu chuyện cho rằng họ có thể sẽ hứng chịu những lời nguyền từ người quá cố.SG Lan Huong

10/. Hẻm núi vàng : Truyền thuyết kể rằng, vào năm 1869, một nhóm thủy thủ đi dọc sông White và lạc vào hẻm núi White Mountains, phía tây bang New Mexico, Mỹ. Ở đây, họ phát hiện những quặng vàng chảy ra từ dòng suối trong hẻm núi, Arizona Republic cho hay.

Tuy nhiên, những thổ dân Apache đã tấn công và giết họ một cách dã man. Chỉ một người mang tên Adams trốn thoát. Adams từng trở lại hẻm núi để tìm lại kho vàng bí ẩn nhưng ông không bao giờ thấy chúng nữa. (Lan Chi tổng hợp)

Lan Hương tổng hợp chuyển tiếp

Logo thu thuat